Tiểu thuyết - Vương Gia, Hãy Để Ta Bảo Vệ Ngươi
Lượt xem : |
a hắc tử mã nổi tiếng, chỉ chọn chủ chứ không phải chủ chọn nó. Ngươi đã được nó chọn làm chủ rồi, cả đời sẽ chỉ trung thành với một mình ngươi.”
“WOW, lợi hại nha~”
Tiểu thiếu niên mừng rỡ kêu lên, quay lại vuốt ve con ngựa một cách âu yếm.
“Tiểu mã à, ngươi chọn ta làm chủ sao? Được, vậy thì cứ theo ta, nhất định không để ngươi chết đói. Ha ha…”
Tùy Phong có vẻ hơi bất mãn vì tiểu thiếu niên cứ một điều tiểu mã, hai điều tiểu mã, dậm dậm chân trước vài cái, phun luôn một bãi nước bọt đầy mùi vị vào mặt chủ nhân mới một cách không hề kiêng nể. Đám đông lại một phen cười nghiêng ngã nhìn vị tiểu thiếu niên đứng trơ như đá nhìn không chớp mắt con ngựa hỗn láo kia, tay chân lúng túng chả biết nên làm gì cho phải. Sau đó, thấy trò vui đã hết, đám đông cũng dần tản ra, chỉ còn tiểu thiếu niên đứng hóa đá cùng hai vị nam nhân tuấn mỹ mặc trường bào xanh kia.
Mạc Kỳ Phong thở dài một hơi, rút ra chiếc khăn lụa thượng phẩm, giúi vào tay tiểu thiếu niên ngốc nghếch.
“Lau mặt đi, nó tên là Tùy Phong, ngươi cứ gọi Tiểu Mã nên khiến nó bực đấy!”
“Ra thế. Cảm ơn huynh đài!”
Mạc Kỳ Phong đứng yên nhìn tiểu thiếu niên lau mặt, có chút ngứa ngáy liền hỏi.
“Ta tên là Mạc Văn, đây là sư huynh của ta, Phượng Vũ. Ngươi tên gì? Từ đâu tới? Sao đầu tóc kỳ dị thế kia?”
Tiểu thiếu niên lau mặt sạch sẽ có hơi lúng túng không biết nên trả lại khăn hay giặt sạch rồi trả, thấy Mạc Kỳ Phong có vẻ chán ghét phẩy tay ra hiệu, liền nhanh như chớp nhét khăn vào tay áo, cười cười cúi người hành lễ.
“Tiểu đệ là Hồ Hiểu Minh, từ nhỏ mồ côi, được sư phụ dẫn theo lang thang khắp nơi. Đầu tóc này là do sư phụ cắt, người không thích tiểu đệ để tóc dài vì tốn thời gian chăm sóc. Cảm ơn hai vị huynh đài đã chỉ giáo, không ngờ lại có một con ngựa tốt thế này, thật thuận tiện tiểu đệ đang muốn mua ngựa đi xa một chuyến.”
“Ngươi định đi đâu?” Mạc Phong Kỳ buộc miệng hỏi một cách lơ đãng, trong lòng vẫn tiếc hùi hụi con ngựa quý, vốn muốn nán lại nhìn thêm một chút. Hồ Hiểu Minh lễ phép đáp:
“Sư phụ tiểu đệ vốn là người của tộc Thanh Miêu, có di nguyện được rải tro cốt trên sa mạc Thanh Miêu nên tiểu đệ đang trên đường đến đó.”
Lời Hồ Hiểu Minh vừa dứt, Phụng Phi Vũ cùng Mạc Kỳ Phong không hẹn mà cùng quay lại nhìn nhau. Chẳng lẽ đây chính là người mà sư phụ nhắc đến. Lại thấy Hồ Hiểu Minh cao gầy, tay chân mảnh khảnh, khuôn mặt thanh tú hiền lành chỉ tiếc chịu vết sẹo xấu xí, không thì hẳn không hề thua kém Mạc Kỳ Phong, người thế này có thể giúp ích gì cho chuyến đi này?
Tuy trong lòng có chút nghi vấn nhưng gặp nhau cũng xem như có duyên, chỉ cần một cái nhìn thoáng qua, Mạc Kỳ Phong liền hiểu ý, thái độ có chút dịu lại, xởi lởi nói.
“Thật trùng hợp, huynh đệ ta cũng đang trên đường đến gặp tộc trưởng Thanh Miêu, nếu tiểu đệ không ngại, có thể đi cùng.”
Phía Đông dãy Nam Sơn là biển Đại La Hải, phía Tây chính là sa mạc Thanh Miêu nổi tiếng. Muốn đến biển hay đến sa mạc tất nhiên đều phải vượt qua đỉnh Nam Sơn hùng vĩ. Lúc này, sắc trời đã tối, bốn bề một vẻ âm u, lại thêm tiếng chim đêm từ xa vọng lại khiến người yếu bóng vía có thể sợ đến chết đứng. Tuy nhiên, dưới chân núi, tiếng vó ngựa nện đều trên nền đất cứng vang đến, một con ngựa lông đen tuyền tuyệt đẹp đang thong thả tiến vào rừng, trên lưng là một tiểu thiếu niên mặc trang phục màu xám nhạt, tóc cắt ngắn kỳ dị, vẻ mặt nhu hòa bình tĩnh.
Hồ Hiểu Minh cũng không phải con nít 6 tuổi, ai bảo theo liền theo, hơn nữa nàng vốn đã quen độc hành từ nhỏ, đồng hành cùng người khác khiến nàng rất khó chịu. Hồ Hiểu Minh tên thật là Hồ Thủy Linh, là một người xuyên thời không mà đến, nói một cách chính xác, nàng là xuyên ngược thời không mà quay lại cố hương. Mẹ nàng vốn là con gái tộc trưởng tộc Thanh Miêu, bị kẻ thù hãm hại đẩy đến thời hiện đại ở Trái đất, không cách nào quay về đành chấp nhận làm vợ hai của tộc trưởng tộc Hồ rồi sinh ra một cặp song sinh nữ. Tộc Hồ không chỉ nổi tiếng giàu có mà còn có tin đồn trưởng tộc biết phép thuật, có thể hô mưa gọi gió. Tộc quy có quy định, phàm là song thai nữ, giữ một giết một. Đứa bé còn sống trở thành thần hộ mệnh của tộc, cả đời sống trong bóng tối, trở thành sát thủ dưới sự chỉ huy của tộc trưởng, không những thế còn bị bắt uống một loại thuốc cực độc khiến cơ thể mất đi cảm giác đau đớn.
Hồ Thủy Linh từ nhỏ đã sống xa mẹ, được dạy dỗ như một sát thủ, bản thân không chút cảm giác đau đớn nên càng lớn lại càng lạnh lùng vô cảm. Mười tuổi nàng đã xuống tay giết người, phương thức lúc nào nhanh, tuyệt, nên trong giới đặt cho nàng biệt danh là Vô Tình. Cho đến một ngày, một đứa bé đã thức tỉnh phần người trong tâm thức của nàng, nàng chợt nhận ra mình chỉ là một con búp bê vô cảm, máu lạnh. Nàng cũng có suy nghĩ, có khát vọng sống bình thường, được biết đau đớn, biết yêu, biết khóc, biết cười. Cùng lúc đó, nàng biết được thân phận thật sự của mình và gặp hai người anh trai cùng cha khác mẹ cũng mang mối hận không đội trời chung cùng gia tộc họ Hồ. Ba anh em liên thủ, một tay diệt hết hội đồng trưởng lão già cả cổ hủ, lập nên một gia tộc Hồ khác có tình người hơn.
Nhưng nàng mãi mãi không lấy lại được cảm xúc, thêm vào đó mỗi hai tháng nàng phải uống thuốc khống chế độc chất do chính các vị trưởng lão trong tộc đặc chế, nay tộc Hồ diệt vong, mạng nàng cũng tận. Hai người anh trai tuy mới gặp em gái chưa lâu nhưng tình cảm sâu đậm, quyết tìm mọi cách cứu mạng nàng, cuối cùng tìm được mẹ nàng bị cha của bọn họ biệt giam đến điên loạn.
Cũng may, lúc gặp lại con gái, thấy đứa con mình mong nhớ suốt 16 năm qua nằm chờ chết, bà liền tỉnh cơn mê, một mạch kể hết mọi chuyện về lai lịch của bản thân cũng như cách giải độc cho con gái. Bà nói xong, hai mắt nhòa lệ, ôm đứa con gái gầy yếu xanh xao vào lòng, âu yếm hôn lên khắp mặt con, dặn dò hai đứa con riêng của chồng di nguyện cuối cùng rồi lao mình vào tường tự sát. Trái tim của bà là thuốc giải cho Hồ Thủy Linh, bà mong muốn sau khi qua đời, con gái sẽ được đưa về cố hương, mang tro cốt của mình rải trên đất của bộ tộc Thanh Miêu, để bà mãi mãi được nằm lại trên quê hương.
Tộc Hồ biết phép thuật không phải là lời đồn vô cớ. Chồng bà biết cách đưa bà quay về nhưng vì lòng ích kỷ nên luôn từ chối, nay hai đứa con riêng của chồng kế thừa sức mạnh của cha. Không nói hai lời, họ quyết định dùng phép thuật của mình thực hiện di nguyện của bà, đồng thời hy vọng đứa em gái bất hạnh sau khi hồi cố hương sẽ có một cuộc sống yên bình, tiêu diêu tự tại.
Hồ Thủy Linh cưỡi ngựa đến một con suối nhỏ thì cho ngựa dừng lại. Nàng nhanh chóng nhảy xuống, thả cương cho Tùy Phong tự do đi lại, riêng mình thì trèo lên một tảng đá lớn tương đối bằng phẳng gần đó, tùy tiện ngồi xuống, giở lương khô ra chậm rãi hoàn thành bữa tối đạm bạc.
Đêm nay không trăng, những vì sao như những viên kim cương được nạm lên nền trời nhung đen, lấp lánh một thứ ánh sáng dịu dàng ấm áp, Hồ Thủy Linh ngẩng đầu nhìn trời, tay vô tình chạm vào chiếc bình ngọc đeo trước ngực rồi khẽ thở dài một tiếng. Nàng đến đây đã hơn một tháng, cũng đã dần quen với cuộc sống cổ đại, không những thế còn rất thưởng thức nơi này, có lẽ cũng vì một nửa trong nàng đang chảy dòng máu của những người nơi đây nên cái gì với nàng cũng thân quen đến lạ.
Điều duy nhất nàng tiếc chính là không thể nhìn mặt mẹ mình lần cuối. Khi
“WOW, lợi hại nha~”
Tiểu thiếu niên mừng rỡ kêu lên, quay lại vuốt ve con ngựa một cách âu yếm.
“Tiểu mã à, ngươi chọn ta làm chủ sao? Được, vậy thì cứ theo ta, nhất định không để ngươi chết đói. Ha ha…”
Tùy Phong có vẻ hơi bất mãn vì tiểu thiếu niên cứ một điều tiểu mã, hai điều tiểu mã, dậm dậm chân trước vài cái, phun luôn một bãi nước bọt đầy mùi vị vào mặt chủ nhân mới một cách không hề kiêng nể. Đám đông lại một phen cười nghiêng ngã nhìn vị tiểu thiếu niên đứng trơ như đá nhìn không chớp mắt con ngựa hỗn láo kia, tay chân lúng túng chả biết nên làm gì cho phải. Sau đó, thấy trò vui đã hết, đám đông cũng dần tản ra, chỉ còn tiểu thiếu niên đứng hóa đá cùng hai vị nam nhân tuấn mỹ mặc trường bào xanh kia.
Mạc Kỳ Phong thở dài một hơi, rút ra chiếc khăn lụa thượng phẩm, giúi vào tay tiểu thiếu niên ngốc nghếch.
“Lau mặt đi, nó tên là Tùy Phong, ngươi cứ gọi Tiểu Mã nên khiến nó bực đấy!”
“Ra thế. Cảm ơn huynh đài!”
Mạc Kỳ Phong đứng yên nhìn tiểu thiếu niên lau mặt, có chút ngứa ngáy liền hỏi.
“Ta tên là Mạc Văn, đây là sư huynh của ta, Phượng Vũ. Ngươi tên gì? Từ đâu tới? Sao đầu tóc kỳ dị thế kia?”
Tiểu thiếu niên lau mặt sạch sẽ có hơi lúng túng không biết nên trả lại khăn hay giặt sạch rồi trả, thấy Mạc Kỳ Phong có vẻ chán ghét phẩy tay ra hiệu, liền nhanh như chớp nhét khăn vào tay áo, cười cười cúi người hành lễ.
“Tiểu đệ là Hồ Hiểu Minh, từ nhỏ mồ côi, được sư phụ dẫn theo lang thang khắp nơi. Đầu tóc này là do sư phụ cắt, người không thích tiểu đệ để tóc dài vì tốn thời gian chăm sóc. Cảm ơn hai vị huynh đài đã chỉ giáo, không ngờ lại có một con ngựa tốt thế này, thật thuận tiện tiểu đệ đang muốn mua ngựa đi xa một chuyến.”
“Ngươi định đi đâu?” Mạc Phong Kỳ buộc miệng hỏi một cách lơ đãng, trong lòng vẫn tiếc hùi hụi con ngựa quý, vốn muốn nán lại nhìn thêm một chút. Hồ Hiểu Minh lễ phép đáp:
“Sư phụ tiểu đệ vốn là người của tộc Thanh Miêu, có di nguyện được rải tro cốt trên sa mạc Thanh Miêu nên tiểu đệ đang trên đường đến đó.”
Lời Hồ Hiểu Minh vừa dứt, Phụng Phi Vũ cùng Mạc Kỳ Phong không hẹn mà cùng quay lại nhìn nhau. Chẳng lẽ đây chính là người mà sư phụ nhắc đến. Lại thấy Hồ Hiểu Minh cao gầy, tay chân mảnh khảnh, khuôn mặt thanh tú hiền lành chỉ tiếc chịu vết sẹo xấu xí, không thì hẳn không hề thua kém Mạc Kỳ Phong, người thế này có thể giúp ích gì cho chuyến đi này?
Tuy trong lòng có chút nghi vấn nhưng gặp nhau cũng xem như có duyên, chỉ cần một cái nhìn thoáng qua, Mạc Kỳ Phong liền hiểu ý, thái độ có chút dịu lại, xởi lởi nói.
“Thật trùng hợp, huynh đệ ta cũng đang trên đường đến gặp tộc trưởng Thanh Miêu, nếu tiểu đệ không ngại, có thể đi cùng.”
Phía Đông dãy Nam Sơn là biển Đại La Hải, phía Tây chính là sa mạc Thanh Miêu nổi tiếng. Muốn đến biển hay đến sa mạc tất nhiên đều phải vượt qua đỉnh Nam Sơn hùng vĩ. Lúc này, sắc trời đã tối, bốn bề một vẻ âm u, lại thêm tiếng chim đêm từ xa vọng lại khiến người yếu bóng vía có thể sợ đến chết đứng. Tuy nhiên, dưới chân núi, tiếng vó ngựa nện đều trên nền đất cứng vang đến, một con ngựa lông đen tuyền tuyệt đẹp đang thong thả tiến vào rừng, trên lưng là một tiểu thiếu niên mặc trang phục màu xám nhạt, tóc cắt ngắn kỳ dị, vẻ mặt nhu hòa bình tĩnh.
Hồ Hiểu Minh cũng không phải con nít 6 tuổi, ai bảo theo liền theo, hơn nữa nàng vốn đã quen độc hành từ nhỏ, đồng hành cùng người khác khiến nàng rất khó chịu. Hồ Hiểu Minh tên thật là Hồ Thủy Linh, là một người xuyên thời không mà đến, nói một cách chính xác, nàng là xuyên ngược thời không mà quay lại cố hương. Mẹ nàng vốn là con gái tộc trưởng tộc Thanh Miêu, bị kẻ thù hãm hại đẩy đến thời hiện đại ở Trái đất, không cách nào quay về đành chấp nhận làm vợ hai của tộc trưởng tộc Hồ rồi sinh ra một cặp song sinh nữ. Tộc Hồ không chỉ nổi tiếng giàu có mà còn có tin đồn trưởng tộc biết phép thuật, có thể hô mưa gọi gió. Tộc quy có quy định, phàm là song thai nữ, giữ một giết một. Đứa bé còn sống trở thành thần hộ mệnh của tộc, cả đời sống trong bóng tối, trở thành sát thủ dưới sự chỉ huy của tộc trưởng, không những thế còn bị bắt uống một loại thuốc cực độc khiến cơ thể mất đi cảm giác đau đớn.
Hồ Thủy Linh từ nhỏ đã sống xa mẹ, được dạy dỗ như một sát thủ, bản thân không chút cảm giác đau đớn nên càng lớn lại càng lạnh lùng vô cảm. Mười tuổi nàng đã xuống tay giết người, phương thức lúc nào nhanh, tuyệt, nên trong giới đặt cho nàng biệt danh là Vô Tình. Cho đến một ngày, một đứa bé đã thức tỉnh phần người trong tâm thức của nàng, nàng chợt nhận ra mình chỉ là một con búp bê vô cảm, máu lạnh. Nàng cũng có suy nghĩ, có khát vọng sống bình thường, được biết đau đớn, biết yêu, biết khóc, biết cười. Cùng lúc đó, nàng biết được thân phận thật sự của mình và gặp hai người anh trai cùng cha khác mẹ cũng mang mối hận không đội trời chung cùng gia tộc họ Hồ. Ba anh em liên thủ, một tay diệt hết hội đồng trưởng lão già cả cổ hủ, lập nên một gia tộc Hồ khác có tình người hơn.
Nhưng nàng mãi mãi không lấy lại được cảm xúc, thêm vào đó mỗi hai tháng nàng phải uống thuốc khống chế độc chất do chính các vị trưởng lão trong tộc đặc chế, nay tộc Hồ diệt vong, mạng nàng cũng tận. Hai người anh trai tuy mới gặp em gái chưa lâu nhưng tình cảm sâu đậm, quyết tìm mọi cách cứu mạng nàng, cuối cùng tìm được mẹ nàng bị cha của bọn họ biệt giam đến điên loạn.
Cũng may, lúc gặp lại con gái, thấy đứa con mình mong nhớ suốt 16 năm qua nằm chờ chết, bà liền tỉnh cơn mê, một mạch kể hết mọi chuyện về lai lịch của bản thân cũng như cách giải độc cho con gái. Bà nói xong, hai mắt nhòa lệ, ôm đứa con gái gầy yếu xanh xao vào lòng, âu yếm hôn lên khắp mặt con, dặn dò hai đứa con riêng của chồng di nguyện cuối cùng rồi lao mình vào tường tự sát. Trái tim của bà là thuốc giải cho Hồ Thủy Linh, bà mong muốn sau khi qua đời, con gái sẽ được đưa về cố hương, mang tro cốt của mình rải trên đất của bộ tộc Thanh Miêu, để bà mãi mãi được nằm lại trên quê hương.
Tộc Hồ biết phép thuật không phải là lời đồn vô cớ. Chồng bà biết cách đưa bà quay về nhưng vì lòng ích kỷ nên luôn từ chối, nay hai đứa con riêng của chồng kế thừa sức mạnh của cha. Không nói hai lời, họ quyết định dùng phép thuật của mình thực hiện di nguyện của bà, đồng thời hy vọng đứa em gái bất hạnh sau khi hồi cố hương sẽ có một cuộc sống yên bình, tiêu diêu tự tại.
Hồ Thủy Linh cưỡi ngựa đến một con suối nhỏ thì cho ngựa dừng lại. Nàng nhanh chóng nhảy xuống, thả cương cho Tùy Phong tự do đi lại, riêng mình thì trèo lên một tảng đá lớn tương đối bằng phẳng gần đó, tùy tiện ngồi xuống, giở lương khô ra chậm rãi hoàn thành bữa tối đạm bạc.
Đêm nay không trăng, những vì sao như những viên kim cương được nạm lên nền trời nhung đen, lấp lánh một thứ ánh sáng dịu dàng ấm áp, Hồ Thủy Linh ngẩng đầu nhìn trời, tay vô tình chạm vào chiếc bình ngọc đeo trước ngực rồi khẽ thở dài một tiếng. Nàng đến đây đã hơn một tháng, cũng đã dần quen với cuộc sống cổ đại, không những thế còn rất thưởng thức nơi này, có lẽ cũng vì một nửa trong nàng đang chảy dòng máu của những người nơi đây nên cái gì với nàng cũng thân quen đến lạ.
Điều duy nhất nàng tiếc chính là không thể nhìn mặt mẹ mình lần cuối. Khi
Bài viết liên quan!